Chúa Nhật thứ 4 mùa Vọng năm A
Bài đọc: Tl 13, 2-7. 24-25a
Đáp ca: Tv 70, 3-4a. 5-6ab.
16-17
Phúc âm: Lc 1, 5-25
Thứ Ba trong tuần 4 MV ngày 20 tháng 12
Bài đọc: Is 7, 10-14
Đáp ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab.
5-6
Phúc âm: Lc 1, 26-38
Thứ Tư trong tuần 4 MV ngày 21 tháng 12
Bài đọc: Dc 2, 8-14
Đáp ca: Tv 32, 2-3. 11-12.
20-21
Phúc âm: Lc 1, 39-45
Thứ Năm trong tuần 4 MV ngày 22 tháng 12
Bài đọc: 1 Sm 1, 24-28
Đáp ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7.
8abcd
Phúc âm: Lc 1, 46-56
Thứ Sáu trong tuần 4 MV ngày 23 tháng 12
Bài đọc: Ml 3, 1-4; 4, 5-6
Đáp ca: Tv 24, 4bc-5ab. 8-9.
10 và 14
Phúc âm: Lc 1, 57-66
Thứ Bảy trong tuần 4 MV ngày 24 tháng 12
Lễ
vọng Giáng sinh
Bài đọc 1: Is 62, 1-5
Đáp ca: Tv 88, 4-5. 16-17. 27 và 29
Bài đọc 2: Cv 13, 16-17.22-25
Phúc âm: Mt
1, 1-25 hoặc 18-25
Lễ
đêm Giáng sinh
Bài đọc 1: Is 9, 1-6
Đáp ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12a. 12b-13
Bài đọc 2: Tt 2, 11-14
Phúc âm: Lc 2, 1-14
Chúa Nhật Đại lễ Chúa Giáng Sinh ngày 25 tháng 12
Bài đọc I: Is 52, 7-10
Đáp ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Bài đọc II: Dt 1, 1-6
Phúc âm: Ga 1, 1-18
HỌC HỎI KINH THÁNH
Chúa Nhật Đại lễ Chúa Giáng Sinh
Phúc âm: Ga 1, 1-18
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi
Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. (3) Nhờ Ngôi
Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành.
3 Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho
nhân loại. 4 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được
ánh sáng. 5 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. 6 Ông đến để
làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 7 Ông không
phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 8 Ngôi Lời là ánh
sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 9 Người ở giữa thế
gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 10 Người
đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 11 Còn những ai đón nhận,
tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên
Chúa. 12 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của
nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 13 Ngôi
Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy
vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn
ân sủng và sự thật. 14 Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố: "Ðây là
Ðấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước
tôi." 15 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn
này đến ơn khác. 16 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn
ân sủng và sự thật, thì nhờ Ðức Giêsu Kitô mà có. 17 Không ai đã thấy Thiên
Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa
Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.18 Và đây là lời chứng của ông Gioan,
khi người Do thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông:
"Ông là ai?"
(Bản dịch nhóm CGKPV)
Suy niệm
1. Thiên Chúa nói với chúng ta về tình yêu của Người bằng cách gửi Lời
Ngài đến với chúng ta. Lời Thiên Chúa đã trở thành người phàm giống như chúng
ta; Người đã nói một ngôn ngữ nhân loại,
và đã kể cho chúng ta về Cha của Người, nói về cách Người nghĩ về chúng ta, và
các chương trình Người lập ra cho chúng ta. Để biết Chúa Cha, tất cả những gì
chúng ta phải làm là nhìn Chúa Kitô, xem những gì Người làm, lắng nghe những gì
Người nói và dạy, nhìn xem những con người mà Người quan hệ với, nơi và những
người mà Người đến chia sẻ bữa cơm với, những người mà Người chọn để cộng tác với
Người.
2. Khi chiêm ngắm Lời Thiên Chúa, Đấng diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên
Chúa và mạc khải chính Thiên Chúa ra cho loài người, để họ tin và được cứu độ,
chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại và lượng định kinh nghiệm của chúng ta về
khả năng “nói” của loài người (như là thông giao, diễn tả sự tin tưởng, khuyến
khích, trân trọng,v.v...) và về “sự thinh lặng” (do cần thiết, do bị câm, do
thiếu quan tâm, do hiềm khích,v.v...).
3. Các Kitô hữu cũng được thúc bách nhìn lại: chúng ta có chăng khả năng
nhận ra được là nhiều lần chúng ta bị bóng tối vây hãm. Chúng ta phải tự hỏi:
Điều gì ngăn cách giữa tôi và Đấng tạo thành tôi, điều gì đang che phủ Ngài, khiến
tôi không nhận ra Ngài và ngăn cản tôi đi vào thông hiệp sống động với Ngài? Dường
như chúng ta còn đang bị cám dỗ thấy có nhiều điều đáng quan tâm hơn, quan trọng
hơn, thuyết phục hơn và hứa hẹn hơn là việc đón tiếp Thiên Chúa, Đấng tự hiến
ban chính mình! Đàng khác, nếu Chúa Cha yêu thương chúng ta đến như thế, tại
sao chúng ta lại không yêu thương nhau?
4. Ở 1Ga 2,23, chúng ta đọc: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa
Cha; kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha”. Chúng ta phải hiểu tương quan
của Đức Giêsu với Chúa Cha có ý nghĩa gì cho chúng ta? Dường như cho đến hôm
nay, sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa vẫn ở tầm mức Cựu Ước hơn là Tân Ước?
5. Làm thế nào liên kết những gì tác giả Tin Mừng thứ IV đã nói về Lời
Thiên Chúa với Đức Giêsu Nadarét lịch sử? Hoặc là chúng ta nghĩ đến Lời Thiên
Chúa như một nhân vật siêu vời hoàn toàn không dính dáng gì đến thế giới chúng
ta, hoặc chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như một con người chìm trong những thực tại
trần thế đến mức không còn gì là siêu phàm nữa. Dường như hiện nay đang có một
xu hướng kéo Đức Giêsu “là người thật” xuống trần gian đến mức không còn là
“Thiên Chúa thật” nữa!
(Lm PX Vũ Phan
Long, ofm)
The Nativity of the Lord – Year A
Gospel: Jn 1:1-18
In the
beginning was the Word, and the Word was with
God, and the Word was God. He was in the beginning with God. All things came to be through him, and without him nothing came to be. What came to be through him was life, and this life was the light of the human
race; the light shines in
the darkness, and the darkness has
not overcome it. A man named John was
sent from God. He came for
testimony, to testify to the light, so that all
might believe through him. He was not the light, but came to testify to the light. The true light, which enlightens everyone,
was coming into the world. He was in the world, and the world came to be through him, but the world did not know him. He came to what was his own, but his own people did not accept him.
But to those
who did accept him he gave power to
become children of God, to those who believe
in his name, who were born not by
natural generation nor by human choice
nor by a man’s decision but of God. And the Word became flesh and made his dwelling among us, and we saw his glory, the glory as of the Father’s only Son, full of grace and truth. John testified to him and cried out, saying, “This was he of whom I said, ‘The one who is coming after me ranks ahead
of me because he existed
before me.’” From his fullness we
have all received, grace in place of
grace, because while the law
was given through Moses, grace and truth came
through Jesus Christ. No one has ever seen
God. The only Son, God,
who is at the Father’s side, has revealed him.
(http://www.usccb.org)
Reflection
To the point:
Before the beginning, there was only God: a communion of perfect love, a
refulgence of “grace and truth,” a fullness of Life. Father, Son, and their
loving Spirit: this communion of Persons spilled over in a triple self- giving.
First, the world came into being. Then the Spirit impregnated a young maiden.
Then the very Son of God took on the flesh of humanity. Now heaven and earth
are reunited in the Mystery of perfect love.
To ponder and pray:
Oh, how I love my Father! I was present in “the beginning” when my
Father spoke, and things came to be. I was present in “the beginning” when my
Father created our beloved people in our image. I was present in “the
beginning” when all things were good. Very good. But not for long. I was
present, too, when humankind’s first parents turned from us, their Creator. I
was present when they were expelled from Paradise and began lives of toil and
darkness, temptation and broken relation- ships, refused grace and compromised
truth. I was present when we sent prophets to teach our divine way of living in
“grace and truth,” when we sent prophets to draw our beloved people back to the
cove- nant we made with them, when we showed them a path out of dark- ness into
the radiant light of our Life. I was there when they rejected our messages of
“grace and truth,” when they killed our prophets. Yet we never failed to meet
our beloved people’s infidelity with fidelity, their callousness with
tenderness, their anger and hatred with mercy and forgiveness. But they
wouldn’t, couldn’t, didn’t learn. We had to find a new way so “all the ends of
the earth will behold the salvation” (first reading) we desire for our beloved
people. Ah, my loving Father has a new plan. This time they will hear. They
will learn. They will change. This time my Father sends me, the very Word of
God. Yes, Father, I will go. Yes, Father, I will empty myself so that I can fully
take on their humanity. I will empty myself to make room in myself for
temptation, for misunderstanding and ridicule, and, yes, even for death itself.
All their human condition I willingly embrace so that my words, the words of
the Word made flesh, may become the “glad tidings . . . announcing salvation”
(first reading). My human heart burns with love, overflows with commitment to
my mis- sion, brims with eagerness to reveal again and again to all of humanity
the deep and abiding love of us, their God. I have come with only one clear
word to speak: be as self-giving as we are. As I empty myself to become one
with them, please help them let go so they can be purified by my words, by my
self-giving, by my love-made-visible. Let me come into their hearts so that
their darkness can be dispelled, so that our light might shine forth through
them. Let our holi- ness pulse within them so that our glory can be visible in
the self-giving life they live. Let me draw them to myself so that what you, my
Father, have given to me as an eternal inheritance may also belong to them. I
willingly say yes to you, my Father. I willingly take on flesh and make my
dwelling among our beloved people. I do this out of the same love we three
Persons share, a love so bursting with Life that nothing can diminish it. A
love I now know in a new way: a mother’s love. A love so Self-giving that a new
Mystery of Life is born.
(Source:
Living Liturgy 2017)